Những lời ‘sấm truyền’ đáng giật mình của Khổng Minh

Trong thư có mấy chữ: ‘Xin lùi ba bước’. Tư Mã Viêm hơi hoài nghi nhưng cũng lập tức làm theo. Nhưng khi nhà vua vừa lùi ba bước thì bỗng nghe thấy một tiếng rầm, chiếc xà rơi thẳng xuống chỗ vua ngồi, khiến bàn ghế tan tành.

Sử sách ghi nhận ông là một nhà chính trị, quân sự, chiến lược, ngoại giao tài ba, kiệt xuất thời Tam quốc. Người đời ca ngợi ông là một nhà tiên tri vĩ đại với tài tiên đoán, liệu sự như thần.

Liệu sự như thần

Khi nhắc tới các nhà tiên đoán tương lai Trung Quốc, không thể nào không nhắc tới một nhân vật nổi danh thế giới trong lĩnh vực này. Người đó chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng. Ông là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Trong văn hoá Trung Hoa, Gia Cát Lượng là hoá thân của trí tuệ quân sự, chính trị. Những lời “sấm truyền”, thuật tử vi, tiên tri của ông để lại cho tới nay vẫn chưa được giải mã hết và vẫn còn là điều bí mật.

Theo tài liệu ghi chép được cho là chính xác nhất về Gia Cát Lượng thì ông vốn là người đất Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông), quận Lang Nha đời Thục Hán. Ông sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc). Lá số của ông là một trong 1.000 lá số của những người có ảnh hưởng lớn nhất cổ kim, được in trong cuốn “Tử vi đẩu số toàn thư Trung Quốc”. Theo lý giải của tử vi thì Gia Cát Lượng là người tuyệt thế kỳ tài, thiên hạ vô song.

Gia Cát Lượng mồ côi cha mẹ từ bé và trong ba anh em thì ông tỏ ra là người hiếu học nhất. Theo truyền thuyết thì thuở nhỏ Gia Cát Lượng là đệ tử của Thuỷ Kính tiên sinh. Thuỷ Kính tiên sinh ẩn cư ở phía Nam thành Tương Dương để dạy học. Trong sân nhà ông có nuôi một con gà trắng cổ bông. Con gà này mỗi khi đến trưa là gáy lên ba tiếng, và khi nghe thấy tiếng gà gáy là Thuỷ Kính tiên sinh cho học trò ra về.


Gia Cát Lượng trên phim

Gia Cát Lượng vốn rất say mê nghe thầy giảng thiên văn địa lý, nên mỗi lần nghe tiếng gà gáy thì ông rất buồn vì không được nghe thầy giảng nữa. Thế nên sau này mỗi khi đi học, ông bèn xúc một túi thóc trong bồ đem theo. Lúc thấy con gà trống sắp nghểnh cổ lên gáy, ông liền vãi thóc ra ngoài cửa sổ cho gà ăn để nó không gáy nữa. Cứ thế khi con gà ăn hết túi thóc thì thầy cũng đã giảng bài thêm hơn một giờ.

Gia Cát Lượng vô cùng hiếu học, ông đọc đủ loại sách vở và tầm sư học đạo khắp nơi. Kinh Dịch được ông nghiên cứu khá nhiều, sau đó kết hợp với Chu Dịch của Chu Văn Vương đời nhà Chu để sáng tạo ra Gia Cát thần toán-sách về xem bói vẫn còn bán chạy cho tới ngày nay.

Những câu chuyện về Gia Cát Lượng xem bói, đoán trước tương lai được kể khá nhiều trong dã sử và chính sử. Chuyện nổi tiếng nhất là việc ông khiến Lưu Bá Ôn, một danh tướng văn võ song toàn nhà Minh phải phục sát đất dù Lưu Bá Ôn sinh sau Gia Cát Lượng tới hơn 500 năm.

Tương truyền Lưu Bá Ôn có lần thân chinh dẫn tướng sĩ vượt núi băng rừng truy kích quân địch không may bị lạc vào một hang núi. Lần mò tìm lối ra khỏi hang, Lưu Bá Ôn thấy một tấm bia đá khắc 14 chữ: “Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn”, phía dưới bia có khắc dòng chữ nhỏ: Gia Cát Lượng thủ bút.

Dòng chữ trên có nghĩa là: Gia Cát Lượng xứng đáng là quân sư của mọi thời đại, nhưng làm tướng thống nhất sơn hà thì có Lưu Bá Ôn. Phía sau tấm bia còn vẽ đường rời khỏi hang núi, nhờ đó Lưu Bá Ôn thoát khỏi cảnh chết đói chốn hoang vu.

Chuyện còn kể rằng trước khi Gia Cát Lượng qua đời, ông để lại một túi gấm và dặn con cháu đời sau nếu gặp nguy khốn hãy mở ra: “Sau khi ta chết, trong số các con sẽ gặp phải đại hoạ chết người. Tới lúc đó hãy dỡ nhà, lấy từ trong tường ra một bọc giấy, trong đó có cách cứu mạng”. Sau khi ông qua đời, Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Nghe tin trong số quan quân triều đình có viên tướng quân là hậu thế của Gia Cát Lượng nên Tư Mã Viêm bèn nghĩ kế trừng trị người này.

Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng nhà Gia Cát. Trên thánh đường Tư Mã Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”. Hậu duệ nhà Gia Cát bèn thật thà truyền đạt tới vua lời dặn dò của Gia Cát Lượng. Nghe thấy vậy, Tư Mã Viêm bèn ra lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem.

Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là phải là hoàng thượng mới mở ra xem). Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm hơi hoài nghi nhưng cũng lập tức làm theo. Nhưng khi nhà vua vừa lùi ba bước thì bỗng nghe thấy một tiếng “rầm”, chiếc xà rơi thẳng xuống chỗ vua ngồi, khiến bàn ghế tan tành.

Tư Mã Viêm trông thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Xem xong thư, Tư Mã Viêm thầm thán phục tài tiên đoán như thần của Gia Cát Khổng Minh rồi ra lệnh phục nguyên chức cho vị tướng quân này. Còn theo Bách Khoa toàn thư mở, Gia Cát Lượng bỗng lâm bệnh nặng khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6. Biết mệnh sắp tàn, ông cho gọi tướng tài Khương Duy vào truyền thụ 24 thiên binh thư của mình.

Gia Cát Lượng còn cẩn thận dặn dò các tướng quân phải nêu cao cảnh giác, đề phòng mối nguy quân Ngụy tấn công trong đó nguồn gốc là Ngụy Diên trở mặt làm phản, rồi bày cho diệu kế đối phó. Quả nhiên, mọi lo lắng, tiên liệu của ông trước khi qua đời đều trở thành hiện thực. Ngụy Diên tráo trở làm phản, nhưng vì nghe lời căn dặn của quân sư, Mã Đại đã chém chết Nguỵ Diên.

Bí ẩn những tiên đoán trong “Mã Tiền Khoá”

Một thuật xem tử vi khác của Khổng Minh Gia Cát Lượng đó là “Mã Tiền Khoá” (trước ngựa gieo quẻ). Tương truyền Gia Cát Lượng vào lúc nhàn hạ trong quân ngũ đã sáng tác “Mã Tiền Khoá”. Đây là bài tiên tri dự đoán những đại sự trong thiên hạ, tổng cộng có 14 khóa, mỗi khoá dự ngôn một thời đại lịch sử mà khi mỗi thời đại lịch sử đi qua rồi, người ta ngẫm nghĩ lại xem mới thấy Gia Cát Lượng dự ngôn chuẩn xác đến lạ thường. Một số người phản đối cho rằng, đó chỉ là cách suy diễn của đời sau khi sự đã rồi. Tuy nhiên những nhà nghiên cứu tiên tri lại đưa ra biện giải riêng.

Theo những chiêm nghiệm của hậu thế thì lời tiên đoán trong các khoá của Gia Cát Lượng vô cùng linh ứng và chính xác. Ví như khoá thứ nhất: “Vô lực hồi thiên/Cúc cung tận tuỵ/Âm cư dương phất/Bát thiên nữ quỷ” (tạm dịch là: “Không sức đổi Trời/Còng mình gắng sức/Âm tồn Dương phất/Tám ngàn nữ quỷ”).

Nhiều quan điểm cho rằng, khóa này chính là lời dự ngôn về bản thân Gia Cát Lượng và thế sự thời Tam Quốc. Sớm biết vận mệnh nhà Hán đã tới hồi tận, mọi nỗ lực chỉ là “vô lực hồi thiên”, nhưng ông vẫn tận tâm tận sức phò tá Thục Hán, không phụ nghĩa bạc tình với chủ nhân Lưu Bị.

Còn ở khóa thứ hai: “Hỏa thượng hữu hỏa/Quang chúc Trung Thổ/Xưng danh bất chính/Giang Đông hữu hổ” (tạm dịch là: “Trên lửa có lửa/Rọi sáng Trung Thổ/Xưng danh bất chính/Giang Đông có hổ”) là những dự ngôn của Khổng Minh về Tấn triều.

Thực tế lịch sử cho thấy, gia tộc Tư Mã nắm đại quyền trong triều đình nhà Ngụy thời Tam Quốc, trong đó, Tư Mã Chiêu trở thành kẻ thống trị thực quyền. Tới năm 265, Tư Mã Chiêu qua đời, con là Tư Mã Viêm lập tức bắt Hoàng đế cuối cùng của Tào Ngụy là Tào Hoán thoái vị, giao lại triều đình cho mình. Viêm tức vị hoàng đế, lập ra triều Tây Tấn trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.

Nếu vận vào khóa thứ hai trong “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng, có thể thấy, nhà quân sư đại tài đã tiên đoán như thần. Câu: “Hỏa thượng hữu hỏa” tức hai chữ “hỏa” thành chữ “Viêm”, ý chỉ Tư Mã Viêm. Tới năm 280, quân Tấn tiến đánh nhà Ngô, bắt sống Tôn Hạo và tiêu diệt nước Ngô, thống nhất thiên hạ.

Nên câu thứ hai: “Quang chúc Trung Thổ” (ý chỉ soi sáng cả vùng Trung Thổ) là chỉ việc này. Nhưng vì Tư Mã Viêm lên ngôi, lập ra triều Tấn thực chất là cướp đoạt ngôi vị từ Tào Ngụy, nên đúng là “Xưng danh bất chính” như lời chiêm nghiệm trong khóa thứ hai này.

Tới khóa 10:“Thỉ hậu ngưu tiền/Thiên nhân nhất khẩu/Ngũ nhị đảo trí/Bằng lai vô cữu” là những dự ngôn của Gia Cát Lượng về sự ra đời của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 13/2/1912, hoàng đế nhà Thanh chính thức thoái vị, vương triều Đại Thanh hoàn toàn sụp đổ. Câu: “Thỉ hậu ngưu tiền” (tức: Lợn sau trâu trước) chính là chỉ sự kiện này. Năm 1911 là năm Tân Hợi, tức năm lợn.

Còn năm 1913 là năm con trâu. Trong khi đó, sự thống trị của vương triều nhà Thanh kết thúc vào năm 1912, chính là năm ở giữa. Riêng câu: “Thiên nhân nhất khẩu” (tức cả nghìn người một miệng) là một câu chơi chữ. Ba chữ “thiên”, “nhân”, “khẩu” khi hợp lại sẽ thành chữ “hòa” trong từ “Cộng hòa”.

“Ngũ nhị đảo trí” (tức năm và hai đảo ngược vị trí) ý chỉ chế độ và quốc thể của Trung Hoa Dân Quốc: mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nguyên thủ quốc gia được gọi là Tổng thống và chức vụ này cũng là do dân bầu. Trước kia có câu: “Cửu ngũ chí tôn”, “ngũ” ở đây ý chỉ ngôi vua. Vì vậy, câu “Ngũ nhị đảo trí” là chỉ chế độ nhà nước do dân làm chủ, dân nắm quyền.

Cho đến ngày nay, những dự đoán của Gia Cát Lượng vẫn còn được truyền tụng và các nhà tiên tri vẫn nghiên cứu về nó. Một số người cho rằng đó chỉ là cách suy diễn của đời sau khi sự đã rồi, nhưng rõ ràng là những lời tiên tri của Gia Cát Lượng đã ứng nghiệm với những hiệu quả rất lạ dù ông đã đoán trước cả mấy trăm năm.

 

  • Leave Comments